Skip to content
Top Banner

BA CHIỀU KÍCH GIÁO HỘI TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN CỦA CÁC KITÔ HỮU

VĂN PHÒNG HỌC VIỆN 01
2025-09-14 15:36 UTC+7 26
vatican-1757838899.jpg

BA CHIỀU KÍCH GIÁO HỘI
TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
CỦA CÁC KITÔ HỮU

Làm thế nào để các chiều kích:
mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ của Giáo hội
có thể bộc lộ trong một thế giới
vốn đang loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống?

Ninh Tú Toàn, OP.

Dẫn nhập

Giáo hội đã bế mạc Năm Đức tin, nhưng không vì thế mà Giáo hội để đức tin ngủ yên. Giáo hội và toàn thể dân Thiên Chúa vẫn tiếp tục tuyên xưng đức tin chân thật, và bày tỏ cách sống trọn vẹn và toả sáng hồng ân đức tin cho một thế giới chia rẽ, thiếu vắng bóng dáng của Thiên Chúa. Vấn đề được đặt ra là: Làm thế nào để các chiều kích: mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ của Giáo hội có thể bộc lộ trong một thế giới vốn đang loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống? Liệu Giáo hội có trở nên bi quan không? Và các chiều kích này có ý nghĩa như thế nào trong đời sống đức tin của các tín hữu?

Bài viết này sẽ lần lượt tìm hiểu xem ba chiều ấy có diễn tả được bản chất và sứ mạng của Giáo hội cho cộng đồng nhân loại và chúng có ý nghĩa như thế nào đối với sống đức tin của các tín hữu trước những thách đố của cuộc sống hiện nay.

 1.     Chiều kích hướng thượng: mầu nhiệm

Trong bài diễn văn ngỏ lời với các nghị phụ Công đồng, tại buổi Khai Mạc Khoá Hai, 29.09.1963, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói rằng “Giáo hội là một mầu nhiệm, một thực tại bí nhiệm”.[1] Khi nói đến Giáo hội là một mầu nhiệm như thế, thì hạn từ “mầu nhiệm”[2] không những ám chỉ một mối tương quan giữa Giáo hội với Mầu nhiệm Ba ngôi mà còn muốn nói đến vai trò của Giáo hội trong chương trình cứu độ xét như là bí tích của Đức Kitô.[3]

a.   Tương quan Ba Ngôi Thiên Chúa

Một điểm khá nổi bật trong hiến chế Lumen Gentium mà người ta có thể đọc thấy là Công đồng không trình bày một Giáo hội mang tính cách phẩm trật và chiến đấu, nhưng trong một mối tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngay từ chương đầu, Công đồng đã cho thấy rằng trong cội nguồn của mình, Giáo hội xuất phát từ Ba Ngôi. Và câu then chốt để hiểu được ý tưởng này, đồng thời cũng là câu kết của Công đồng khi Công đồng trình bày Giáo hội trong tương quan với Ba Ngôi: “Một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.[4]

Việc Giáo hội xuất phát từ Ba Ngôi Thiên Chúa được diễn tả trong kế hoạch cứu độ. Kế hoạch này khởi phát từ Chúa Cha: “Bởi ý định khôn ngoan nhân lành, hoàn toàn tự do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ; Người đã quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh” (LG 2). Như thế, cùng đích của sự tự do và mầu nhiệm nhất, tức là kế hoạch nhưng không và diệu kỳ của Chúa Cha, chính là làm cho nhân loại này được thông dự vào đời sống thánh thiêng giống như trong sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa.[5]

Và kế hoạch này được thực hiện một cách trọn vẹn nhất nơi sứ mạng và công cuộc của Chúa Con. Người được Chúa Cha phái uỷ đến trần gian để khai nguyên nước trời nơi trần gian, tức là Giáo hội. Giáo hội này hiện diện cách huyền nhiệm nhờ chính quyền năng của Thiên Chúa. Sự khai nguyên Giáo hội trên trần gian này được thực hiện bằng chính máu và nước của Chúa Con (LG 3). “Máu và nước” từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Con được các nghị phụ hiểu như là bí tích Rửa Tội và Thánh Thể. Điều này làm nảy sinh một cấu trúc mang tích cách bí tích của Giáo hội.[6]

Sứ mạng và công cuộc của Chúa Con đạt đến đỉnh điểm khi Chúa Thánh Thần được sai đến trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Công đồng đã cho thấy rõ hoạt động của Chúa Thánh Thần khi Người được phái đến: Người đến để khai mào cho sứ vụ của Giáo hội, để thánh hoá Giáo hội. Người ban sức sống cho Giáo hội, và khơi mạch nước trường sinh cho các tín hữu, và là lời bảo chứng cho thân xác phục sinh mai sau. Người ngự trong Giáo hội và trong tâm hồn các tín hữu, cầu nguyện nơi cung lòng của họ, và chứng thực ơn làm nghĩa tử. Người hướng dẫn Giáo hội đến chân lý toàn vẹn. Người kết hợp Giáo hội bằng sự thông hiệp và các tác vụ. Cuối cùng là người canh tân Giáo hội và hướng dẫn Giáo hội kết hợp với Đức Kitô (LG 4).

b.  Giáo hội, Bí tích của Đức Kitô

Vai trò của Giáo hội trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa được diễn tả như là bí tích của Đức Kitô. Khái niệm về bí tích, trong khoa Giáo hội học đương đại, là “một khái niệm rất nổi bật. Theo lối hiểu truyền thống, bí tích là dấu chỉ hữu hình cho ân sủng vô hình. Bí tích chứa đựng và thông truyền ân sủng mà nó biểu lộ. Mọi phẩm tính của bí tích được thực hiện một cách hoàn hảo nhất nơi Đức Kitô, và, sau Người, nơi Giáo hội. Đức Kitô là bí tích của Thiên Chúa - Đấng duy nhất nơi Người mà tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa trở thành hiện thực trong lịch sử của con người. Đến lượt, Giáo hội là bí tích của Đức Kitô, tức là một biểu tượng sống động mà Người vẫn tiếp tục hiện diện trong thế giới qua Chúa Thánh Thần”.[7]

Hay nói theo cách diễn tả của Công đồng Vatican II, Giáo hội, bí tích của Đức Kitô, nghĩa là dấu chỉ và phương thế để hiệp nhất con người với Thiên Chúa và con người với nhau (LG 1). Chính ý tưởng này cũng được SGLHTCG, trong các số 775-776, nhắc lại rằng: cứu cánh hàng đầu của Giáo hội chính là làm sao để cho mọi người được hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa, và vì vậy không gì khác hơn Giáo hội phải là bí tích cho sự hiệp nhất của con người cho mọi thời đại. Chính qua Giáo hội, Đức Kitô sẽ tỏ lộ lòng thương xót của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. 

2.     Chiều kích hướng nội: hiệp thông

Chiều kích hiệp thông là hình ảnh chủ đạo của Công đồng Vatican II.[8] Ý niệm về sự hiệp thông (comunio, cum-unio) ám chỉ đến “sự hiệp nhất ngay chính bên trong tính đa dạng phổ quát. Chính vì vậy, sự hiệp nhất được hiểu rằng để thực hiện ý định hiệp nhất của Thiên Chúa ngay trong chính sự đa dạng của từng ngôi vị và từng dân tộc, thì Chúa Cha đã đặc cử Con của Người và Thánh Thần, là Chúa là Đấng Ban Sự Sống, Đấng làm cho toàn thể Giáo hội, từng và mỗi tín hữu, nguyên lý quy tụ mọi người, và nguyên lý của sự hiệp nhất trong giáo huấn của các  Tông đồ, trong sự hiệp thông với nhau, trong lễ bẻ bánh và trong cầu nguyện”.[9] Từ định nghĩa này ta có thể thấy rằng chiều kích hiệp thông được thể hiện ở nhiều cấp độ: hiệp thông trong Chúa Thánh Thần, hiệp thông trong những sự thánh, hiệp thông giữa các thánh và hiệp thông giữa các giáo hội địa phương.[10] Tuy nhiên, trong giới hạn của bài viết này chỉ dừng lại ở các cấp độ vốn được lưu tâm trong đời sống đức tin của các tín hữu: hiệp thông trong các sự thánh và hiệp thông giữa các thánh.  

a.   Hiệp thông trong các sự thánh

Giáo hội chính là sự hiệp thông trong các sự thánh. Điều này được tỏ lộ qua hai cách thế đặc biệt: (1) Lời Chúa, mời gọi nên thánh và (2) bí tích, một thực tại tối ưu của Lời, đại diện cho Mầu Nhiệm Vượt Qua trong cuộc sống của con người. Ngay trong Bữa Tiệc Ly của Chúa, Lời và bí tích hiện diện cách tột đỉnh. Bữa Tiệc của Chúa không gì khác hơn đó là bí tích Thánh Thể. Chính trong bữa tiệc này, Giáo hội tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, thực tại hoá Mầu Nhiệm Vượt Qua trong tính đa dạng của không gian và thời gian và giao hoà con người với Thiên Chúa và với nhau. Thánh Thể là bí tích của sự hiệp nhất, một tấm bánh được bẻ ra từ một Thân Mình của Đức Kitô, tức là Giáo hội, bằng quyền năng của Thánh Thần. Sự hiệp thông của Giáo hội nảy sinh từ trong sự kết hợp của Lời và bánh nơi bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể làm nên Giáo hội, điều mà sự hiệp thông trong các sự thánh được thể hiện nơi cử hành việc tưởng niệm Thánh Thể. Nhưng rõ ràng là nếu Thánh Thể làm nên Giáo hội, thì chắc chắn Giáo hội cũng làm nên Thánh Thể. Như lời của thánh Phao-lô có nói rằng Lời sẽ không được loan báo, nếu chẳng có bất cứ ai để loan báo (Rm 10,14-15). Tương tự như thế, việc tưởng niệm sẽ chẳng được cử hành nếu chẳng có bất kỳ ai cử hành nó theo như lệnh truyền của Chúa.[11]

b.  Hiệp thông giữa các thánh

Sự hiệp thông của Giáo hội thể hiện qua việc hiệp thông giữa các thánh. Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma, đã nói rằng những ai được Thánh Thần hướng dẫn, họ chính là con cái của Thiên Chúa. Như thế, đời sống Kitô hữu, được Giáo hội là Mẹ sinh ra nhờ Lời của Chúa và các bí tích, là đời sống theo Thánh Thần. Các tín hữu, trong cùng một phép rửa và nhiệm cục bí tích, được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và nhờ Người và trong Người, họ được đổ đầy tràn Thánh Thần. Giáo hội là sự hiệp thông giữa các thánh theo cách thức là những người rửa tội chia sẻ cùng một Thánh Thần và được nuôi dưỡng bằng các ơn của Người. Những ơn này chính là các đặc sủng, vốn phát sinh từ sự tự do và sáng tạo của Thánh Thần, được ban cho các tín hữu để làm tăng trưởng Thân Thể Giáo hội của Đức Kitô. Vì thế, không ai có quyền đứng yên một chỗ hay hướng vọng về quá khứ, bởi vì Thánh Thần luôn luôn sống động và hoạt động. Từ đây, một Giáo hội được coi là hiệp thông cùng các thánh phải luôn luôn mở lòng ra với Thánh Thần. Nói khác đi, Giáo hội luôn luôn phải dấn thân để chiến thắng những con người tội lỗi. Giáo hội luôn luôn phải được thanh luyện và canh tân.

Sự hiệp thông giữa các thánh cũng nhắc nhớ đến sự “thánh thiện” của Giáo hội, vốn được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Sự thánh thiện của Giáo hội đặt trên nền tảng sự thánh thiện của Đức Kitô là đầu, dựa trên các ơn của Chúa Thánh Thần, dựa trên đời sống thánh thiện của Đức Maria và các thánh.[12]

3.     Chiều kích hướng ngoại: sứ vụ

a.   Thế giới, nơi Giáo hội đến để loan báo

Thế giới ngày nay đang biến chuyển một cách sâu đậm. Điều này đã được Công đồng đánh giá cách đây 50 năm: Lịch sử tiến bước quá nhanh; khoa học phát triển; tư duy thay đổi: từ tĩnh sang động; sự chênh lệnh ngày càng cao; tâm lý thay đổi; lối suy nghĩ về luân lý thay đổi; ý thức về tôn giáo thay đổi (GS 5;6;7). Sau 50 năm, sự biến chuyển này càng khủng khiếp hơn nữa: toàn cầu hoá; công nghệ cao; phương tiện di chuyển hiện đại; chiến tranh “nóng”, nhiều chủ thuyết mới xuất hiện: duy thế tục, tương đối, trào lưu hạ thấp quyền con người – coi con người như một hữu thể lỏng; sự trống rỗng đang lan tràn ô nhiễm ngày càng tăng; phạm vi con người ở ngày càng hẹp. Cách riêng tại Việt Nam, Giáo hội vẫn đang và tiếp tục đối diện với học thuyết vô thần vốn là chỗ cam go, và nhiều thách đố nhất mà Giáo hội đang phải đối diện (GS 19; 20; 21).

Trong một bối cảnh thế giới như thế, Giáo hội không được phép bi quan, bởi vì thế giới này là công trình tạo dựng của Thiên Chúa và dù có tội lỗi, sự ác, Thiên Chúa vẫn yêu thương. Giáo hội sẽ không thể gặp được Thiên Chúa nếu không đi vào thế giới. Thế giới chính là nơi “Giáo hội đến để nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa trở thành chứng nhân cho Danh Thánh của Ngài”.[13] Nói khác đi, Giáo hội được thiết lập không phải ở trên thế giới hay ngoài thế giới mà là đi trong thế giới, nhập cuộc với thế giới như Đức Giêsu đã nhập thể vào trần gian. Điều này được LG diễn tả một cách rất rõ ràng rằng Giáo hội như là một Israel đi trong sa mạc, phải hoà mình vào lịch sử của nhân loại (LG 9). Khi đi trong lịch sử của nhân loại như vậy, Giáo hội ý thức nơi mình một sứ vụ để hoạt động. Sứ vụ đó chính là loan báo tình thương của Thiên Chúa.

b.  Nội dung và cách thức của việc loan báo

Trước hết về mặt từ ngữ, “loan báo” bắt nguồn từ động từ “evangelise”. Hạn từ này được Công đồng sử dụng có nghĩa là “một cứu cánh đặc biệt của hoạt động sứ vụ được uỷ thác là việc loan báo Lời Chúa và vun trồng của Giáo hội giữa các dân tộc cũng như những nhóm chưa tin Chúa Kitô” (AG 6)[14]. Còn về mặt nội dung của việc loan truyền Lời Chúa, đó chính là lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại (LG 18). Để việc loan báo này có hiệu quả thì không gì khác hơn là Giáo hội phải trở thành chứng nhân sống động cho lòng thương xót. Tất cả các tín hữu đều có chung một mục tiêu là làm chứng tá cho lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không chỉ có các giám mục, linh mục, và tu sĩ mà thôi, tuy cách thức thể hiện có khác nhau tuỳ theo từng phận vụ (LG 30). Việc làm chứng này có thể gặp những thử thách, thậm chí nguy hại ngay cả đến tính mạng nữa:

Thánh Công đồng hết lòng tạ ơn Thiên Chúa đã không ngừng cho xuất hiện ngay cả trong thời đại chúng ta những người giáo dân can đảm phi thường giữa những cơn bách hại. Thánh Công đồng lấy tình người cha yêu thương và tri ân họ (LG 30).

Nội dung thì bất biến, nhưng cách thức làm chứng tá hay loan báo tình thương của Thiên Chúa thì cần hợp với thời đại, như lời của Đức Gioan Phaolô II đã nói rằng:

Bối cảnh văn hóa và xã hội thay đổi kêu gọi chúng ta phải làm cái gì mới: đó là sống một cách mới mẻ kinh nghiệm cộng đồng của chúng ta về đức tin, và việc loan báo, nhờ công trình rao giảng Tin Mừng “mới mẻ về lòng nhiệt thành, trong các phương pháp và trong những lối diễn tả”.[15]

Như vậy, cần phải có một phương thế “mới” trong việc làm chứng tá hay loan báo Tin Mừng cho con người ngày hôm nay. Cái “mới” này phải được bộc lộ ngay trong chính cách sống, chứng từ, ngọt lửa nhiệt huyết của mỗi người tín hữu.

Và để thực hiện được điều đó, Giáo hội không ngừng đọc dấu chỉ của thời đại. Như Đức Giêsu, Đấng luôn luôn đọc dấu chỉ thời đại để biết được thánh ý của Chúa Cha thế nào, thì Giáo hội hội cũng phải làm như thế:

Chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay của con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí của con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi Trinh Nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống như chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi” (GS 22).

Giáo hội đọc như thế là để biết chính mình, canh tân và đổi mới cho hợp với nhu cầu của thời đại. Giáo hội ý thức rằng Giáo hội không đi một mình. Vì thế, Giáo hội luôn mang tính cách cánh chung khi đi trong lịch sử của con người. Nói khác đi, Giáo hội luôn sống bằng niềm hy vọng. Chính sự hy vọng này quyết định cái “mới” hay sự tươi trẻ nơi Giáo hội. Nhờ đó, Giáo hội mới có thể cống hiến cho một thế giới đầy biến động này (GS 40).

Như vậy, ba chiều kích trên của Giáo hội có tương quan chặt chẽ với nhau. Mầu nhiệm của Giáo hội sẽ không đến được với con người, nếu Giáo hội không mở rộng tương quan Ba Ngôi của mình ra cho bên ngoài lẫn bên trong của Giáo hội. Chiều kích hướng nội và hướng ngoại sẽ chẳng là gì nếu không được khởi đi từ chính thực tại huyền nhiệm, một thực tại không phải ở trên trời, hay bên ngoài thế giới con người. Thực tại huyền nhiệm này đã nhập cuộc với chính con người. Từ đây, ta sẽ thấy được những ý nghĩa của các chiều kích này trong đời sống cộng đồng nhân loại nói chung và đời sống của người tín hữu nói riêng.

4.     Những ý nghĩa của các chiều kích
      trong đời sống đức tin

Ở chiều kích thứ nhất, vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống đức tin của Giáo hội cũng như của các tín hữu rất quan trọng. Chính Người là tác động lên tất cả mọi hoạt động của Giáo hội cũng như của các tín hữu: từ việc khai mào, thánh hoá, hướng dẫn, chứng thực đến việc kết hợp Giáo hội với Đức Kitô và canh tân Giáo hội. Bên cạnh đó, Giáo hội còn đóng một vai trò “trung chuyển” giữa Thiên Chúa và con người qua những phương thế khác nhau: (1) Giáo hội loan báo Lời Chúa cho con người. Qua Giáo hội, các tín hữu đón nhận được Lời Chúa, qua sách Thánh, Truyền Thống và Huấn Quyền; (2) nhờ Giáo hội, người tín hữu đón nhận được ơn cứu độ qua các bí tích; (3) vai trò “trung chuyển” của Giáo hội còn được diễn tả như hình ảnh của Người Mẹ, đấng đã sinh thành và dưỡng dục chúng ta vào đời sống đức tin nhờ lời giảng dạy và các bí tích.[16]

Ở chiều kích thứ hai, sự hiệp thông cho thấy rằng các tín hữu cần đến Giáo hội để nên thánh nhờ những phương thế nên thánh mà Đức Kitô đã ký thác cho Giáo hội chẳng hạn như lời giảng, bí tích, cầu nguyện. Hơn nữa, các tín hữu nên thánh ở trong Giáo hội, bởi vì Giáo hội là một gia đình, nơi đó các tín hữu được sinh ra, sống và lớn lên, và vì vậy nhờ lời cầu nguyện chung với nhau, nhờ sự nâng đỡ khích lệ nhau bằng lời nói và gương sáng. Ngoài ra, các tín hữu cũng có sự liên đới với nhau và với sự thánh thiện của Giáo hội: sự thánh thiện của Giáo hội và của mỗi thành viên cũng ảnh hưởng đến toàn thể cộng đoàn. Điều này cho thấy sự tương tác rất rõ giữa tội và sự thánh thiện của mỗi cá nhân: nếu sự thánh thiện của mỗi cá nhân gia tăng sự thánh thiện của Giáo hội như thế nào, thì tội cũng sẽ làm suy giảm sự thánh thiện của Giáo hội như vậy.[17]

Ở chiều kích thứ ba, đời sống đức tin của các tín hữu không chỉ được đánh giá qua việc cầu nguyện mà còn được đánh giá qua việc chia sẻ tình thương đối với tha nhân vốn đang ở trong một thế giới trống rỗng và khát một thứ “nước tình thương”. Điều này được diễn tả qua cơn khát của người phụ nữ xứ Samari đứng bên giếng nước, mà chính tại nơi đây Đức Giêsu đã cho người phụ nữ này thứ nước tình thương:

Không có người nào, trong cuộc sống, mà không ở cạnh một giếng nước với chiếc vòi rỗng, như người phụ nữ xứ Samaria ấy, với hy vọng được thỏa mãn ước muốn sâu xa nhất trong tâm hồn, chỉ có ước muốn ấy mới có thể mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống. Ngày nay có nhiều giếng nước trước cơn khát của con người, nhưng cần phân định để tránh các thứ nước ô nhiễm. Cần định hướng rõ ràng việc tìm kiếm, để không rơi vào tình trạng thất vọng, có thể gây tai hại.[18]

Do đó, trong ánh sáng này, người tín hữu không chỉ có bổn phận cho con người thời nay biết được đâu là dòng “nước tinh tuyền” để uống mà con chia sẻ chính nguồn nước tinh tuyền mà mình đã được nhận được từ chính cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giêsu.

Ngoài ra, việc làm chứng tá cho tình thương của Thiên Chúa được trở nên thu hút và đẹp hơn cả là nhờ vào đời sống thánh thiện của các tín hữu:

Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được rao giảng bởi những ai bị chiếm đoạt và được linh hứng bởi tình yêu của Chúa Cha đối với con cái mình, tình yêu đó được tỏ bày nơi con người Đức Giêsu Kitô. Việc loan truyền này là một sứ vụ cần đến những con người nam nữ thánh thiện, họ sẽ làm cho Đấng Cứu Thế được biết và được yêu suốt đời của họ. Một ngọn lửa chỉ được cháy lên bằng cái gì đã bén lửa.[19]

Kết luận

 Như vậy các chiều kích: mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ, không phải là cái gì đó quá cao siêu đối với đời sống của thực tại con người. Trước hết, khi nói đến mầu nhiệm của Giáo hội, không phải nói đến điều không tưởng nhưng là nói tới một mối tương quan sâu xa với Ba Ngôi Thiên Chúa. Cũng ở trong khía cạnh này, Giáo hội cũng bộc lộ vai trò của mình trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Từ đây, chiều kích này cho thấy hai ý nghĩa quan trọng, đó là vai trò của Thánh Thần trong đời sống đức tin của các tín hữu và vai trò trung chuyển ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi Giáo hội cho con người qua những phương thế khác nhau.

Thứ đến, chiều kích này không chỉ dừng lại ở đó mà còn được mở rộng qua chiều kích hiệp thông. Chiều kích này có nhiều cấp độ và hai cấp độ cần được lưu tâm trong đời sống đức tin của người tín hữu đó là hiệp thông trong các sự thánh, vốn làm Giáo hội trở thành bí tích của Đức Kitô và hiệp thông giữa các thánh theo cách thức chúng ta là những người có cùng một phép Rửa, cùng một Thánh Thần và được dưỡng nuôi theo ơn của Người. ở cấp độ này, nó cũng nhắc nhớ tới sự thánh thiện của Giáo hội. Trong chiều kích này, Giáo hội sẽ là nơi để các tín hữu được nên thánh và liên đới với nhau. 

Và cuối cùng, ở chiều kích thứ ba, Giáo hội sẽ phải thể hiện một sứ mạng loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa cho một thế giới đang bị tổn thương bởi sự ác và đang khát khao một dòng nước của tình thương. Giáo hội không được phép bi quan về thế giới và Giáo hội phải sống niềm hy vọng. Chính sự hy vọng sẽ làm cho Giáo hội luôn luôn mới trong cách thức diễn tả nội dung loan báo Tin Mừng. Và vì thế, tất cả mọi phần tử trong Giáo hội đều được mời gọi chia sẻ tình thương cho cộng đồng nhân loại và chỉ cho con ngươi ngay nay biết đâu là nguồn nước “tinh tuyền” để uống. Việc làm này sẽ trở nên đẹp hơn nhờ vào ngọn lửa thánh thiện của mỗi tín hữu bởi “một ngọn lửa chỉ có thể cháy lên bằng cái gì đã bén lửa”.



[1] Msgr. Leonardo Z. Legaspi, OP, The Church We Love (Manila: Publishing House, 1997), tr. 13.

[2] Hạn từ “mầu nhiệm” (mystery) không nên được hiểu là những gì không thể biết được, đúng hơn hạn từ này được ám chỉ đến một thực tại vượt quá những gì là khả năng của con người. Thực tại siêu việt này phải được đặt trong khung cảnh cứu độ và ở trong một vài cách thức khả giác đã được mạc khải và tỏ lộ (xc.  Msgr. Leonardo Z. Legaspi, OP, ibid., tr. 27).

[3] Phan Tấn Thành, OP, Đời Sống Tâm Linh, tập 3 (Rôma, 2003), tr. 78.

[4] Trích lại trong Lumen Gentium, bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện (Giáo Hoàng Học Viện, 1972), số 4.

[5] Bruno Forte, La Chiesa Icona Della Trinità: Breve Ecclesiologia, English translation by E. P. Hontiveros, C. G. Arevalo, and F. Gustilo (Manila: St. Paul Publications, 1990), tr. 30.

[6] Ibid., tr. 32.

[7] Avery Dulles, S.J., A Church To Believe In: Discipleship and the Dynamics of Freedom (New York: Crossroad, 1982), tr. 46.

[8] Susan K. Wood, “The Church as Communion”, trong The Gift of the Church, Peter C. Phan, ed. (Collegeville: The Liturgical Press, 2000), tr. 160.

[9] Bruno Forte, ibid., tr. 75.

[10] Ibid., tr. 136; xc. Phan Tấn Thành, OP, ibid., tập 3 (Rôma, 2003), tr. 80-81. 

[11] Bruno Forte, ibid., tr. 79-81.

[12] Phan Tấn Thành, OP, ibid., tập 3 (Rôma, 2003), tr.81.

[13] Benedict XVI, Tái Truyền Giảng Tin Mừng: để thông truyền đức tin Kitô Giáo, bản dịch của Trần Đức Anh, OP (THĐGMTG 13, 7.10. 2012), [dữ liệu] có trên http://gxdaminh.net/tai-lieu/6057-su-diep-thuong-hdgm-the-gioi-thu-xiii.html.

[14] Trích lại từ Mariasusai Dhavamony, S.J., “Evangelization and Dialogue in Vatican II and in the 1974 Synod”, trong Vatican II Assessment and Perspectives: twenty-five years after (1962-1987), Vol. 3, René Latourelle, ed. (Mahwah: Paulist Press, 1989), tr. 265.

[15] Trích lại từ Benedict XVI, ibid.

[16] Phan Tấn Thành, OP, ibid., tập 3 (Rôma, 2003), tr. 79.

[17] Ibid., tr. 81.

[18] Benedict XVI, ibid.

[19] Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, số 23.