Trong một bối cảnh lịch sử và văn hóa
không thuận lợi và có nhiều bóng tối này,
tôi, một Kitô hữu sống đức tin
với chiều kích tương quan của nó với người khác
và với xã hội phải tự hỏi mình:
liệu đức tin có giúp tôi gột bỏ hết
những dấu ấn văn hóa tiêu cực ấy không?
Vĩnh An
Gia đình là nền tảng của quốc gia, nên qua gia đình tôi là một người dân trong một cộng đồng dân tộc. Dân tộc này có những bước thăng trầm từ thời lập quốc cho đến hôm nay. Trước tình hình quê hương có nhiều biến động, là một Kitô hữu, và cũng là một người con của đất nước quê hương, tôi không thể ngồi yên mà chứng kiến những nhiễu nhương, ngang trái. Sống đức tin không cho phép tôi không bận tâm gì đến dân tộc của mình. Những góp nhặt vụn vặt từ những gì quá khứ để lại, may ra giúp ích phần nào cho kinh nghiệm sống thực tế của chúng ta. Thực ra, tôi chẳng thể nói về lịch sử bốn ngàn năm chỉ xin nhận định về một vài cột mốc mà tôi cho là quan trọng.
1. Thời lập quốc và thời Bắc thuộc
Sách sử nói rằng từ thời Hồng Bàng lập nước đến nay là bốn ngàn năm. Vả lại, nước Trung Hoa lúc đó cũng chia năm xẻ bảy, chắc hẳn nước Việt lúc đó chỉ là một địa phương nhỏ của Trung Hoa. Người Hán đã thống nhất Trung Hoa và coi nước Việt ấy như một miền đất của Tàu, họ chia thành quận huyện và cho các quan thái thú xuống cùng các lạc hầu, lạc tướng của họ khai hóa miền đất cực Nam này. Cuộc khai hóa đã thành công chí ít đối với Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp, thế nên trong suốt một ngàn năm con số các cuộc khởi nghĩa không nhiều và thường của những cá nhân nằm trong bộ máy chính quyền hoặc trong giới quý tộc, vì những lý do riêng tư không đại diện và nhân danh dân tộc. Ví dụ : Bà Trưng thì thù chồng là chính còn nợ nước thì rất mơ hồ, Ngô Quyền cũng thế, vì bố vợ là chính, dân tộc chỉ là sự nhân danh. Đến khi thập nhị sứ quân nổi lên, dĩ nhiên trách nhiệm dẹp loạn đó phải là của chính quyền trung ương Trung Hoa, nhưng vì một lý do nào đó họ không can thiệp thì chính một người địa phương đã dẹp các loạn đảng để xưng vương. Đó là triều đại đầu tiên của dân tộc Việt. Nhà Đinh được thành lập. Thiết tưởng từ ngữ “văn hiến” nên tính từ thời điểm này. Vả lại độc lập về chính trị với một chính quyền riêng không xóa bỏ việc nước ta sau đó vẫn lệ thuộc về văn hóa với phương Bắc tức văn hóa Nho giáo vốn là tư tưởng của các nhà nho quản lý xã hội với hai nhiệm vụ chính là cai trị và giáo huấn dân trong tư cách bề tôi của vua. Vì thế, để tạo ra sự khác biệt văn hóa ngõ hầu làm nhẹ bớt sự lệ thuộc về văn hóa Nho giáo, các triều đại Lý, Trần trọng dụng Phật giáo là thứ tôn giáo mà các nhà Nho Phương Bắc rất dị ứng kể từ Hàn Dũ (768-823) với bài biểu khuyên vua không nên rước cốt Phật vào Trung Quốc để thờ.[1]
Giải pháp tình thế này xét cho cùng “lợi bất cập hại” vì Phật giáo sẽ làm xói mòn tinh thần “thế thiên hành đạo” của Nho giáo, nhà Nho tiêm nhiễm Phật giáo sẽ bù đắp vào tính tương đối của vạn sự vô thường, của vạn pháp giai không với việc đề cao quyền lợi ích kỷ của cá nhân và dòng tộc, tính cục bộ bè phái,[2] với việc chạy theo công danh mà theo cách nói của Nguyễn Công Trứ: “không công danh thì nát với cỏ cây” bất chấp dân tộc và đất nước có nát bấy vì tham vọng của mình. Vô hình trung điều này sẽ tiếp tục nuôi dưỡng đầu óc cát cứ, sự thắng thua bằng vũ lực kiểu mạnh được yếu thua đã có từ thời thập nhị sứ quân.
Tinh thần dân tộc như một khối thống nhất đáng lẽ phải nhờ sự độc lập dân tộc phát huy và củng cố, đàng này suy yếu dần bởi sự lệ thuộc văn hóa, ngoài ra sự lệ thuộc văn hóa này còn được cộng hưởng bởi chấn thương Bắc thuộc còn tồn tại trong vô thức tập thể (subconscience collective).
2. «Hội chứng» Bắc Thuộc
Đời sống một dân tộc có thể ví như đời sống một con người và lịch sử một dân tộc có thể ví như sử tính hiện sinh của con người ấy. Phân tâm học cho rằng những chấn thương thời thơ ấu của một người sẽ chi phối đời sống tâm lý thậm chí đạo đức của người ấy ở tuổi trưởng thành thậm chí suốt cả đời người. Bắc thuộc có thể coi như thời thơ ấu của dân tộc Việt Nam, tuổi trưởng thành theo tôi bắt đầu từ đời nhà Đinh. Do đó tôi gọi hội chứng Bắc thuộc là những chấn thương, những ẩn ức, đè nén mà dân tộc Việt Nam phải chịu trong thời Bắc thuộc. Vậy phải chăng thời Bắc Thuộc dân tộc Việt Nam đã có những chấn thương? Không cần suy nghĩ nhiều, câu trả lời chắc chắn là có.
Trước hết phải xét mối tương quan giữa các “thầy huấn giáo” người Tàu với dân bản địa thời Bắc Thuộc. Chắc chắn có cái nhìn khinh thị từ phía người Tàu đô hộ, cái nghiệt ngã, độc ác của các viên chức và binh sĩ bảo vệ an ninh và bình định; ngược lại là sự sợ hãi, khúm núm và đặc biệt mặc cảm tự ti của người bị trị vì không thể có tương quan hòa hợp và cộng tác bình đẳng giữa hai bên. Lâu ngày qua nhiều năm tháng sự phóng chiếu của người Tàu lên chính người Việt trở thành chính nếp sống, nếp suy nghĩ, hành động của người Việt. Điều này vừa là sự ám thị từ bên ngoài, vừa là sự tự kỷ ám thị, giống như cái nhìn của con rắn làm cho con chuột hoàn toàn bị tê liệt.
Sau đây là những hậu quả tiêu cực sinh ra từ tương quan đó, dĩ nhiên các hậu quả này không tập trung vào toàn bộ một nhóm người và cùng một lúc, tuy nhiên nó luôn có và theo một tần số nào đó, tóm lại nó luôn có đó, đôi khi rất trắng trợn:
* Trước hết là tâm lý tự ti mặc cảm, khúm núm với kẻ có quyền, nể nang những kẻ có tiền, nhưng khinh người nghèo khó sẽ dẫn đến thái độ: đội trên đạp dưới. Sự đội trên này lúc ban đầu như để minh chứng mình biết trọng quyền lực của thiên triều hoặc mình đã được thiên triều cải hóa. Còn sự đạp dưới như sự bù trừ cho việc đội trên ấy. Ít nhất tôi cũng có uy với những kẻ thấp kém hơn tôi. Tâm lý tự ti mặc cảm ấy cũng làm cho một số người có của ăn của để hoặc có chút kiến thức có thái độ đại ngôn, khoác lác và thái độ cam chịu của những kẻ nghèo, ý chí tiến thủ dễ bị bào mòn và tiêu tán. Đó là thái độ của Phú ông và Thằng Bờm trong bài ca dao Thằng Bờm mà chúng ta đều biết.
* Cũng từ tương quan ấy sinh ra sự đánh giá bản thân quá thấp trước kẻ giàu kẻ mạnh, và đánh giá mình quá cao trước kẻ có địa vị thấp hơn hoặc với người xa lạ: điều này dẫn đến sự lệ thuộc thái quá vào quá khứ, vì thế ngăn cản sự suy tư độc lập, những suy tư phù hợp với những hoàn cảnh mới và do đó làm thui chột óc sáng tạo vì sáng tạo nào cũng bao hàm một dự phóng về tương lai. Điều này khiến người ta không tin mấy vào sự tiến bộ là một quan niệm vốn gắn liền với thời gian đường thẳng khác hẳn thời gian chu kỳ của nho giáo và Phật giáo:
Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi(Nguyễn Công Trứ)
(Mảnh đất hôm nay tôi ngồi, cổ nhân đã từng ngồi trước tôi à không có gì mới)
Từ đó sinh ra tâm lý thủ cựu, không chấp nhận cái mới và cái khác mình, thậm chí cái gì của mình cũng nhất, gia đình mình, làng mình, quê mình, đất nước mình. Đó là sự đánh giá hoàn toàn chủ quan và theo cảm tính:
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
* Khi đưa ra cho mình một lý tưởng để theo đuổi thì hình mẫu có ngay trước mắt là các quan cai trị oai phong. Vả lại, sau này trong thời kỳ độc lập, con đường làm quan là con đường tiến thân chắc chắn nhất vì thế đã sinh ra tâm trạng háo danh, cách sống thì học đòi quan cách hay lối sống trưởng giả, cách học thì từ chương, xáo rỗng thiếu thực nghiệm. Họ thường hiểu theo nghĩa xấu câu tục ngữ « Giấy rách phải giữ lấy lề ». Vì thế khổ mấy họ cũng phải giữ thể diện hay sĩ diện. Cho dù việc giữ sĩ diện có thể làm họ khổ thêm gấp bội.
Thế nên với đa số, công danh là con đường duy nhất phải theo, để khẳng định sự tồn tại của mình: « Không công danh thì nát với cỏ cây ».
Hoặc:
Đã mang tiếng sống trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Thế nhưng công danh này, dù nó có sức mạnh thôi thúc khá mạnh nhưng nhiều khi rất phù hiếm hư ảo, và do đó hoàn toàn không đồng nghĩa với công nghiệp và cũng không phục vụ công ích đích thực.
Của đáng tội, đối với đa số người bị trị, đất nước này đã trở thành cái gì mà mình có chung với kẻ ngoại bang cai trị xấu ác, dữ dằn nên cái cảnh cha chung không ai khóc là chuyện thường. Nói cách khác người ta mất dần ý thức về công ích hoặc lèo lái công ích vào tư ích như câu tục ngữ: không ăn được thì đạp đổ. Từ đó sinh ra tâm lý thu vén cho mình sợ sau này sẽ không còn dịp tốt. Người tài giỏi mà không quy thuận phe ta sẽ bị truy bứa và sát hại không để họ quy hàng kẻ thù làm hại quyền lợi phe ta. Dần dần người ta tập nhiễm những thái độ tiêu cực, vô trách nhiệm và hay đổ lỗi cho nhau như đã từng đỗ lỗi cho các quan lại tham tàn của thiên triều phương Bắc: Người ta thường đem sự đối phó, đề phòng để ứng xử nhau ngoài xã hội. Sự hòa nhã niềm nở nhiều khi chỉ ở bên ngoài; lòng chân thành khó kiếm. Cách sống đối phó ấy khiến người ta không còn cởi mở, sống khép kín, khước từ đối thoại, thù dai và phản ứng bằng bạo lực kiểu một mất một còn. Tình cảm gia tộc không thiếu nhưng sự lợi dụng và đun đẩy trách nhiệm cũng thường hay xảy ra đặc biệt khi sống chung trong cùng một mái nhà, trên cùng một mảnh đất: tam đại hoặc tứ đại đồng đường.
Bên trên tôi đã nói việc chọn Phật giáo làm quốc giáo của các triều đại đầu tiên là một giải pháp tình thế nhưng sau khi phân tích hội chứng Bắc Thuộc chúng ta lại thấy chọn lựa này ngẫu nhiên lại phù hợp với cá tính người dân đã “bị” tập nhiễm theo hướng tiêu cực trong thời Bắc Thuộc. Có lẽ trong hơn ngàn năm nô lệ, người Việt đã thấm thía lời Phật dạy đời là vô thường, khổ não và vô ngã để rồi cũng đồng cảm với những lời dạy khác.
Sau này khi đất nước độc lập rồi, nhưng lòng thù địch còn trong vô thức đưa người ta đi dần vào nội chiến. Thật vậy, đàng sau lòng thù địch không được nhận ra là cảm xúc tự ti. Người không phát triển lòng tự trọng hay tự tin nuôi dưỡng sự giận dữ với bản thân và liên tục bị nỗi sợ người khác cự tuyệt làm cho bất an. Điều này giải thích sự hiếu chiến, hiếu sát không chỉ kẻ thù mà cả những người tài giỏi xuất chúng mà người ta không thu phục được.
Đến đây tôi tự hỏi với tư cách một người theo đạo Chúa: “Liệu đức tin vào Đấng Siêu nhiên có làm người Kitô hữu vượt thắng những điều tiêu cực kể trên (trong một mức độ nào đó chúng như thể một thứ tội tổ tông của dân tộc) để trở nên hoàn thiện như Cha trên trời theo lời căn dặn của Chúa Giêsu Kitô không?” Để trả lời, tôi nghĩ là có nhưng không rộng khắp và mức độ chưa khả quan lắm, nghĩa là lý tưởng hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện ấy còn rất xa và phải được theo đuổi, cố công qua nhiều thế hệ tín hữu nhiệt thành và trưởng thành trong một đức tin có việc làm là đức ái.
3. Một dân tộc có văn hóa và ngôn ngữ riêng
Ngôn ngữ gắn liền với tư tưởng. Ngôn ngữ của Người Việt tương đối thuần nhất trong cách đọc và viết. Các nhà chuyên môn nói nó là một hợp thể của tiếng Mường, tiếng Hán và của một vài ngôn ngữ khác. Những từ ngữ bác học thường lấy từ chữ Hán và có ngữ căn là chữ Hán. Điều này dễ hiểu vì sau khi độc lập, người Việt tiếp tục sống theo văn hóa của hai tôn giáo lớn là Khổng giáo và Phật giáo, ngoài ra còn có Lão giáo và một vài tôn giáo bình dân khác thờ cúng các thế lực tự nhiên.
Phật giáo Bắc tông đã bị Hán hóa và các chính quyền phong kiến đều sử dụng hai thứ văn hóa Khổng và Phật ấy để giáo huấn người dân và làm cho nhân tâm được thuần hậu, bởi lẽ môi trường văn hóa luôn tác động lên cách người ta sống, làm việc, lao động, giao tiếp kể cả yêu đương. Nơi mỗi con người văn hóa tác động đến tâm lý và tinh thần và cả thể lý. Là một người lớn lên và sống theo văn hóa Việt Nam, chắc chắn, tôi đã bị nó chi phối, khuôn đúc cách ứng xử hoặc ngôn hành.
Như chúng ta đều biết văn hóa Việt Nam xuất phát từ sự tiếp thu văn hóa Trung Hoa trong thời kỳ Bắc thuộc, một thời kỳ lệ thuộc kéo dài hơn một ngàn năm. Chắc chắn thời kỳ này đã để lại dấu ấn sâu xa và khó mà phai nhạt vì sau đó các giá trị tiếp thu còn được củng cố bởi giai cấp vua quan phong kiến cho mãi đến sau khi nhà Nguyễn đã chấm dứt.
Cốt lõi của văn hóa Trung Hoa là Khổng giáo, một nền luân lý được thiết lập trên một hệ thống tôn ti trật tự mà người đứng đầu là vua. Đàng sau vua có Trời vì vua là thiên tử (con trời) thế nhưng ông Trời của vua phong kiến là ông trời-khống, hữu danh vô thực nhớ thì nhắc đến, không nhắc đến cũng chẳng sao. Chúng ta có ba đấng bậc đầu tiên là Quân-Sư-Phụ. Sau ba vị trí đầu tiên ấy, chúng ta có ngũ luân: Quân thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu. Quan hệ quân-thần là cao quý và chuẩn mực nhất. Phu thê đứng hàng thứ ba nhưng đôi khi còn bị cho xuống hàng sau chót như trong truyện cổ Lang-Liêu. Sở dĩ như thế vì triết học Nho giáo có hình nhi thượng là Kinh Dịch với thái cực âm dương. Quan niệm này giống với một triết học nhị nguyên thiện ác. Sự phát sinh và vận hành của muôn loài là do tương tác của hai nguyên lý âm--dương (hay thiện--ác) đó.
Xem ra nhà Nho đã ngạo mạn coi người phụ nữ là nơi có thể dung chứa nhiều điều xấu ác ; trái lại, đàn ông mang trong mình những tiềm năng thiện hảo và cao quý. Vì thế, nếu ngoài xã hội đức người quân tử (người có địa vị và quan chức) như gió, đức kẻ tiểu nhân (những lê dân nghèo khổ bé mọn) như cỏ, gió thổi cỏ rạp thì trong gia đình đương nhiên phải là cảnh: chồng chúa vợ tôi hay phu xướng phụ tùy. Tình cảm không quan trọng. Vì trong quan hệ chủ-tôi ấy, tình cảm càng làm địa vị người chồng bị lung lay. Ngày nay chúng ta thường nghe nói cái nghĩa (hoặc tình-nghĩa) như tình-nghĩa vợ chồng, tình-nghĩa thầy trò… cách nói này là để nhấn mạnh đến bổn phận theo luật công bằng, hơn là tình yêu, nhất là tình yêu Kitô giáo là một quan niệm hoàn toàn mới.
Tóm lại, Khổng giáo không hề có một ý niệm gì về tình yêu trong truyền thống Do Thái-Kitô giáo. Ở đó người nam và người nữ hưởng được sự bình đẳng[3] của con cái Thiên Chúa. Như thế có thể nói tình-nghĩa trong Nho giáo ở mặt tích cực của nó chỉ thể hiện một khía cạnh nhỏ của tình yêu hay bác ái Kitô giáo.
Mặt khác, bên cạnh ông Trời-khống của vua, còn có tôn giáo thờ Trời của người bình dân, chân thành hơn và khẩn thiết hơn như trong câu ca dao:
Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.
Hoặc,
Gặp Trời là được thọ khang,
Tam đa ngũ phúc rõ ràng Trời cho.
Đã hẳn tín ngưỡng này có tính chất tự nhiên và còn dấu vết của phiếm thần hoặc đa thần, vì chữ Trời tiếng Việt còn chỉ bầu trời xanh mà từ ngữ trung gian là Đấng Cao Xanh. Chữ “trời” còn dùng để chỉ các quy luật tự nhiên như trong các cụm từ: trời nắng, trời mưa, trời làm cơn lụt mỗi năm… Tín ngưỡng này chí ít cũng chuẩn bị dân nghèo mong mỏi một vị minh quân thương dân thương nước mà sau cùng trong nỗi thất vọng tận cùng các vua trần thế, họ đã tìm thấy được trong Đấng Mêsia của dân Chúa chọn là Đức Giêsu Kitô người Nagiarét. Vả lại, đạo mới đến với người Việt đúng vào lúc có thể nói là đất nước không có vua đích thực, thật ra vẫn có vua Lê nhưng mọi quyền hành đều trong tay hai chúa: Trịnh và Nguyễn.
Một giá trị văn hóa khác là Phật giáo. Bất chấp chủ tâm của các triều đại là gì, người ta không thể chối cãi Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong văn hóa Việt Nam. Theo tôi, việc đón nhận Phật giáo như một giá trị thứ hai sau Khổng giáo ngoài việc giáo dục người dân một nền luân lý thụ động, không thăng tiến vốn văn hóa sẵn có trái lại làm cho nó trở nên tiêu cực hơn trong các mối quan hệ liên chủ thể và xã hội. Thật vậy, một mặt Phật giáo nhìn con người và vạn vật dưới ba phạm trù: vô thường, khổ não, vô ngã. Vô thường và vô ngã không thể coi tha nhân là một nhân vị, một hiện sinh có sử tính để yêu thương, trân trọng. Còn Khổ não nhiều nhất cũng chỉ khiến chúng ta tỏ lòng thương hại (pitié).
Vả lại cùng thân phận nhược tiểu và bị trị, tình cảm thương hại nơi người Việt Nam ngày càng được củng cố mạnh mẽ. Mặt khác cái vô ngã ấy còn được nhấn mạnh bởi cái ‘tánh-không’ – một trình độ giác ngộ theo quan điểm thiền tông – hẳn đã làm những nhà Nho tự trao cho mình sứ mạng “thay trời hành đạo” càng khẳng định bản ngã của họ không phải bởi chân-ngã là cái mà không ai có thể tham chiếu được vì nó là kết quả của một chuỗi phủ định, nhưng bởi công danh phú quý (những vật ngoại thân, đôi khi rất hảo huyền)[4]; sự phì đại bản ngã này như để bù đắp cho cái vô và cái không ấy của Thiền tông. Công, danh cùng thế giá biến họ thành những kẻ cao ngạo, thành chủ thể thương hại trước đối tượng được thương hại là đám lê dân.
Ở chỗ này, “chân ngã” cũng giống như ông trời-khống của chữ ‘thiên’ trong danh từ thiên-tử chỉ nhà vua mà sau cùng dùng để chỉ một quy luật tự nhiên làm nền tảng cho mọi quy luật khác. Và điều này cũng dễ hiểu vì Phật giáo là một tôn giáo vừa vô thần vừa phiếm thần.
Hơn nữa, việc tu tập để đạt được giải thoát của nhà Phật theo nhận định của nhiều học giả là một cuộc hành trình từ cô đơn đến cô đơn. Hành trình này là một phân đoạn của một chuỗi bất định theo đường xoắn ốc, khởi điểm là vô minh và đích đến được diễn tả bằng cụm từ “bất khả tư nghì”, trái ngược với sự giải phóng hay cứu rỗi của Kitô giáo có tính phổ quát và liên đới mà tình yêu là dây liên kết. Chính trong hành trình cô đơn ấy mà nhà Phật cho rằng Tu là cội phúc, tình là dây oan. Người đối tác trong tình yêu bị coi như một trở ngại cho giải thoát, có khi còn bị coi như cái bình chứa đầy đồ nhơ uế theo quan niệm khổ hạnh của nhà Phật. Đó là chưa nói quan niệm của Phật giáo cho rằng cái kiếp sau cùng trước khi thành Phật, hành giả cầu tìm giải thoát phải là một người nam. Thế nên trong dân gian thường nghe nói: con là nợ, vợ là oan gia, cửa nhà là nghiệp chướng.
4. Các cuộc nội chiến gây ra những cảnh điêu linh
Ca dao có nói vị trí địa lý hay địa thế có thể ảnh hưởng đến cách ứng xử trong các mối tương quan như ngày nay người ta nói về địa-chính-trị, hoặc địa-văn-hóa :
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Trên một địa hình vòng tròn người ta dễ dàng nắm hai tay nhau thành một vòng tròn nhìn thấy nhau, do đó dễ đoàn kết đối thoại và hòa hợp nhau; còn trên một địa hình kéo dài cũng bấy nhiêu người, chỉ nắm được một tay nhau và thường không thấy rõ mặt, sự liên kết thường lỏng lẻo và không bền chặt.
Địa hình Việt Nam thuộc vào loại sau và trong thực tế lịch sử, khi cái “bánh chưng” Bắc Phần kéo dài thành cái “bánh tét” Trung Phần thì các tay “anh hùng”[5] sẽ xắn cho phe nhóm mình mỗi người một “khoanh bánh tét” ấy. Thế nên có thể nói tiến trình Nam tiến gắn liền với tiến trình phân rẽ cát cứ lần thứ hai sau Thập nhị sứ quân nhưng khốc liệt hơn nhiều. Vì vậy, lịch sử cận đại của Việt Nam là cuộc nội chiến giữa Trịnh và Nguyễn kéo dài mấy trăm năm còn khốc liệt hơn cả thời kỳ thập nhị sứ quân. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, dân nghèo rơi vào cảnh khổ triên miên, trở thành những viên gạch lót đường cho các thế lực cát cứ. Sau lần Lê Lợi khởi nghĩa thành công; Trung Hoa gần như không can thiệp vào các cuộc nội chiến ở Việt Nam ngoại trừ Tôn Sĩ Nghị đem một ít quân theo yêu cầu của Lê Chiêu Thống. Tóm lại, thái độ của Trung Hoa trong suốt thời gian ấy – nhất là thời kỳ họ phải đối phó với các cường quốc phương Tây – là tọa sơn quan hổ đấu, ngồi trên núi xem cọp cắn nhau.
Cuộc chiến tranh cát cứ này làm nổi rõ một điều: qua những triều đại độc lập, sự thống nhất ngôn ngữ, văn hóa, chính trị đã không vượt qua nổi những chấn thương Bắc thuộc để xây dụng một tinh thần dân tộc thống nhất, chung lòng chung sức xây dựng một quốc gia hùng mạnh[6]. Trong bối cảnh này, tầng lớp quan lại địa phương có lẽ cũng không khá hơn bọn quan lại của thiên triều phương Bắc: Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.[7] Cũng nên nhớ rằng khát vọng độc lập thời Bắc thuộc luôn gắn liền với một ông vua riêng, đầy sự sáng suốt, giàu lòng từ ái và nhân hậu: chẳng phải dân Việt đã từng muốn tôn Sĩ Nhiếp lên làm vua khi gọi ông này là Sĩ Vương hay sao?
Lòng thù hận được khơi dậy trở thành lương thực mà phong kiến dùng để nuôi dưỡng chiến tranh và sự bóc lột dân nghèo thấp cổ bé miệng. Trong hoàn cảnh đó tình yêu quảng đại dần dần bị thui chột. Người ta không còn biết chấp nhận cái khác mình giống như hoàng tộc nhà Trần không chấp nhận cho người họ Trần lấy người ngoại tộc. Mưu đồ và tham vọng chính trị của Trịnh Nguyễn rồi sau này của cả Tây Sơn lôi kéo cả một dân tộc vào cảnh nồi da xáo thịt, làm con tim Việt Nam trở thành băng giá. Khả năng yêu thương ngày một thui chột, có chăng chỉ còn lòng thương hại nhau,
Bầu ơi, thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Giàn đây là cái giàn rách nát của một đất nước bị qua phân, của thân phận người nghèo phải trở thành những viên gạch lót đường cho các thế lực chính trị cát cứ. Chính trong bối cảnh văn hóa ấy, người Việt Nam chúng ta thường nói thương nhau thay vì yêu nhau, và dường như đó chỉ là tình thương xót giữa những người đồng cảnh ngộ bị ức hiếp, bóc lột.
Kết luận
Trong một bối cảnh lịch sử và văn hóa không thuận lợi và có nhiều bóng tối này, tôi, một Kitô hữu sống đức tin với chiều kích tương quan của nó với người khác và với xã hội phải tự hỏi mình: liệu đức tin có giúp tôi gột bỏ hết những dấu ấn văn hóa tiêu cực ấy không? Phải chăng tôi vẫn còn thờ Chúa như thờ vua nghĩa là với tâm lý sợ hãi và trong lòng còn ôm ấp mộng công danh? Phải chăng tôi còn giữ đạo như bảo thủ một lập trường phản kháng hơn là sống đạo, hoặc như cách nói một lời “xin lỗi” rồi buông xuôi, giữ đúng “lễ nghi” mà không làm việc “nghĩa”. Cách nào đó tôi vẫn còn tự nhiên hóa siêu nhiên thay vì siêu nhiên hóa thế giới trần tục? Phải chăng tôi an tâm với đời sống phụng vụ và bí tích mà làm lơ trước tiếng kêu gào của công lý và hòa bình? Phải chăng tôi không thật sự hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em khi hạ thấp giá trị của người khác để giành phần thắng về mình?
[1] Sau ngày CSVN thống nhất đất nước bằng khí tài của khối CS và đặc biệt của Trung Cộng, Ông Nguyễn Khắc Viện cũng khuyên Trung Ương Đảng CS lấy Phật giáo để xây dựng lại văn hóa dân tộc. Đại ý ông nói vì Trung quốc phục hồi Khổng Tử, bắt đầu với việc trùng tu khu di tích lịch sử của Khổng Tử ở chính quê hương Khổng từ nên “ta” sẽ phục hồi Phật giáo lấy Phật giáo làm nền tảng cho văn hóa (Mác-xít lúc đó bị khủng hoảng vì sự xung đột giữa hai nước đàn anh Nga-Tàu).
[2] Khi phân biệt ý nghĩa của hai đại từ “chúng ta” và “ta”, tôi thấy ngoại trương của “ta” hẹp hơn và có tính cục bộ hơn ngoại trương của “chúng ta”, nhưng lòng tự hào, khoa trương lại to lớn hơn nhiều, như khi nói làng ta, phe ta, đảng ta. Có thể nói tính cục bộ là đặc trưng của đạo đức hương nguyện. Điều này là một trở ngại không nhỏ cho việc xây dựng tinh thần đoàn kết quốc gia. Hoặc khi từ bạn trong Hán-Việt là bạn hữu; trong tiếng Việt là bạn bè nói cách khác chỉ khi có cùng lập trường mới thành bạn và mới được bè phái bênh vực che chở cả khi đương sự có hành động sai trái.
[3] Trong ngũ luân, do việc phải giữ tôn ti khoảng cách giữa hai bên đối tác càng về sau càng nhỏ dần. Vì thế Bằng Hữu xem ra bình đẳng nhất. Trái lại Kitô giáo lại thường coi tình bạn là cái nền chung nhất cho mọi quan hệ. Chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa … Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu.”(Ga 15,15). Xem ra sự bình đẳng là điều kiện cho giới răn yêu thương nhau trước đó (Xc.Ga 15, 12).
[4] Nhà Nho Nguyễn Công Trứ là người rất uyên thâm Phật học đã viết một câu thơ gần như một GIỚI RĂN cho mọi kẻ sĩ thời ông là “Không công danh thì nát với cỏ cây”. Khi nói câu này, Nguyễn Công Trứ không hề quan tâm đến ý hướng phục vụ của công-danh mà đối tượng của sự phục vụ đó là dân tộc Việt Nam, một dân tộc nghèo nàn và lạc hậu.
[5] Khi đọc câu thơ của Nguyễn Công Trứ “Ở đời muôn sự của chung/ Hơn nhau một tiếng ‘anh hùng’ mà thôi”, tôi thường nghĩ đến chủ trương hiện nay: “đất đai là sở hữu toàn dân, … nhưng nhà nước là người quản lý”.
[6] Nước ta không như nước Mỹ chỉ sau một thời gian ngắn, họ đã hình thành một tinh thần dân tộc độc lập và tự chủ để giành độc lập từ tay người Anh, dù họ là những di dân đa văn hóa từ nhiều quốc gia khác nhau đến Bắc Mỹ...
[7] ‘Cướp’ nói lên sự bất công kèm theo bạo hành. Thế nên có tác giả phê bình văn học thường ví thân phận người Việt Nam giống với thân nàng Kiều của Nguyễn Du, một nạn nhân trường kỳ của bạo hành: bạo hành của luân lý khi bán mình chuộc cha rồi bạo hành của tình dục, của tôn giáo, của hôn nhân khi bị Hoạn Thư ép ra hầu rượu Thúc Sinh, và sau cùng của chính trị khi bị Hồ Tôn Hiến ép gả cho một thổ quan. Trong nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân không có đoạn kết thúc có hậu: Kim-Kiều tái hợp.